Giuse bị bán qua Ai Cập

Gia-cóp có 12 người con trai. Giu-se được 17 tuổi thì đi chăn chiên với các anh mình. Ông Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, ông may cho cậu một áo choàng dài tay. Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn mình, thì ghét cậu và không ăn nói tử tế với cậu.


Một lần kia Giu-se làm mơ và kể lại giấc mơ cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. Cậu kể cho họ nghe về giấc mơ: "Em thấy chúng ta đang bó những bó lúa ngoài đồng, bó lúa của em vươn dậy, đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh bó lúa của em, và sụp xuống lạy bó lúa của em." Các anh bảo cậu: "Mày muốn làm vua cai trị chúng tao sao đây?" Và họ càng ghét cậu thêm.
Một lần khác cậu lại làm mơ và kể cho các anh. Cậu nói: "Em lại làm mơ. Em thấy mặt trời, mặt trăng và 11 ngôi sao đang sụp xuống lạy em." Cậu kể lại cho cha và các anh nghe, nhưng cha mắng cậu và nói: "Giấc mơ mày đã thấy là gì? Không lẽ Tao, mẹ mày và các anh mày lại phải sụp xuống đất lạy mày sao?" Các anh càng ghen với cậu, còn cha cậu thì nhớ điều ấy.


Một hôm, Ông Ít-ra-en gọi bảo Giu-se: "Các anh con đang chăn chiên dê ở đồng Si-khem. Con hãy đi xem các anh con và chiên dê có được bình yên không, rồi hãy trở về báo cho cha biết."
Giu-se ra đi và tìm thấy các anh mình đang giữ chiên ở Đô-than. Thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần thì họ lập mưu giết chết cậu. Họ bảo nhau: "Thằng vua làm mơ đang đến kia. Chúng ta hãy giết và ném nó xuống một cái giếng. Chúng ta sẽ nói với cha là thú dữ đã ăn thịt nó. Để xem giấc mơ của nó đi tới đâu!"

Nghe thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu Giuse; cậu nói: "Đừng đụng tới mạng sống nó." Rưu-vên bảo họ: "Đừng đổ máu em chúng ta. Cứ ném nó xuống cái giếng trong sa mạc, nhưng đừng giết hại nó." Cậu có ý cứu em khỏi tay họ và đưa về cho cha. Khi Giu-se đến chỗ các anh, thì họ lột chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước. Rồi họ ngồi xuống ăn cơm.

Giu-đa nói với các anh em: "Ta giết Giuse và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, vì nó là em ta." Các anh em cùng đồng ý.

Những người buôn Ma-đi-an đi qua đó. Họ kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên 20 đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập. Khi Rưu-vên trở lại giếng thì thấy Giu-se không còn ở dưới giếng nữa. Cậu liền xé áo mình ra hối hận. Cậu đến nói với các em: "Thằng bé không còn nữa! Còn tôi, tôi biết đi đâu bây giờ!"

H
ọ lấy áo choàng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu. Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không." Ông nhận ra cái áo và kêu lên: "Áo chùng của Giuse đây! Thú rừng đã xé xác ăn thịt nó rồi! " Ông Gia-cóp xé áo mình ra, khóc thương cậu. Tất cả các con trai con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi.
Người Ma-đi-an đem bán Giuse cho ông Pô-ti-pha là viên chỉ huy của vua Ai-cập là Pha-ra-ô.

Bánh Mana Từ Trời

Toàn thể con cái Ít-ra-en tới sa mạc Sin kể từ khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Trong sa mạc, con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay Thiên Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng các ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói ở đây."


Thiên Chúa nghe biết liền phán với ông Mô-sê: "Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không. Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần cho chúng lượm mỗi ngày để ăn vào ngày thứ Bảy."

Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nói với con cái Ít-ra-en: "Thiên Chúa sẽ cho anh em chiều có thịt để ăn, và sáng có bánh để được thoả thuê, vì Thiên Chúa đã nghe thấy những lời anh em kêu trách Người."
Chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt đất, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì đây? " Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ: "Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em làm của ăn".

Ông Mô-sê nói với họ: "Đừng có ai để dành cho đến sáng." Một số người đã không nghe lời ông Mô-sê: họ để dành cho đến sáng, và bánh đó đã có giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ vì họ không nghe lời Thiên Chúa. Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt trời toả sức nóng, thì nó tan ra.

Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là Man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.

Ông Mô-sê nói: "Đây là điều Thiên Chúa đã truyền: Hãy đong đầy một đấu để giữ lại cho con cháu các ngươi; như thế, chúng sẽ thấy bánh Ta đã cho các ngươi ăn trong sa mạc, lúc Ta đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập." Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Hãy lấy một cái bình và đổ vào đó một đấu đầy man-na, rồi đặt trước nhan Thiên Chúa để giữ lại cho con cháu anh em." Theo như Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, ông A-ha-ron đã đặt cái bình ấy đằng trước Chứng Ước, để giữ lại.

Con cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an.

Mừng 200 Sinh Nhật Thánh Gioan Don Bosco

                                                    Cha Thánh  Gioan don Bosco                                                   
 Thiên Chúa đã ban cho người một trái tim bao la như đại dương

Sinh16 tháng 81815

Castelnuovo, tỉnh Piémont, miền Bắc Ý
Mất31 tháng 11888 (72 tuổi)
Tôn kínhCông giáo Rôma,
Anh giáo
Chân phước2 tháng 61929Roma bởiGiáo hoàng Pius XI
Tuyên thánh1 tháng 41934Roma bởi Giáo hoàng Pius XI
Đền chínhThe Tomb of St John Bosco, Basilica of Our Lady Help of Christians,Torino, Italy
Lễ kính31 tháng 1
Quan thầy củangười học việc, biên tập, xuất bản, học trò, giới trẻ
Gioan Bosco (1815-1888), hay Don Bosco (theo tiếng Ý truyền thống thì chữ "Don" là một từ xưng hô tôn kính) hoặc Giovanni Bosco, là một vị thánh của Giáo hội Công giáo Rôma. Nổi tiếng là một nhà hùng biện ở Torino, tuy nhiên, ông được biết nhiều nhất với tư cách là người sáng lập ra tu hội Salesian vào năm 1852.


Thân thế và sự nghiệp

Ông tên đầy đủ là Giovanni Melchiorre Bosco, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1815 tại làng Becchi, thuộc tỉnh Piémont miền Bắcnước Ý, trong một gia đình nông dân nghèo. Cha ông là Phanxicô Bosco mất khi ông mới lên hai tuổi. Mẹ ông là bà Magarita. Bà qua đời cuối năm 1865.
Gia cảnh khó khăn, từ nhỏ, để có tiền đi học, ông đã phải làm nhiều việc khác nhau: chăn bò, việc đồng áng, bồi bàn cà phê, may quần áo, may giầy... Năm 11 tuổi, ông mới bắt đầu được đi học, tuy nhiên đến năm 16 tuổi ông đã vào được bậc trung học.
Tuy vậy, từ nhỏ ông đã có chí nguyện tu hành giúp đời. Vì vậy, năm 1835, ông vào Đại chủng viện Torino, được thụ phong linh mục 6 năm sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1841 (26 tuổi). Sau khi chịu chức, ông khởi đầu mục vụ tông đồ bằng cách đi thăm các Trại Giáo hóa dành cho các thanh thiếu niên phạm pháp tại Giáo phận Torino.
Cuối năm 1841, ông nhận nuôi dưỡng Bartôlômêô Garelli, một trẻ em vô gia cư. Dần dà, ông nhận nuôi thêm nhiều trẻ em vô gia cư hoặc mồ côi. Ban đầu, ông quy tụ các em để tổ chức vui chơi, tham dự Thánh Lễ và hoc giáo lý. Sau khi có nơi ở cố định ở Valdocco, Thành Torinô, ông đã cho xây nhà nội trú, mở các lớp dạy học và các xưởng dạy nghề. Số lượng trẻ em ngày càng đông, khiến nghĩa cử của ông ngày càng vất vả, khiến ông từng ngã bệnh do bị sưng phổi nặng nhưng may mắn qua khỏi.
Do bấy giờ chính phủ Ý gây nhiều rắc rối, nên ông đã phải nhờ một số tu sĩ đến giúp đỡ trong việc lo cho các trẻ mồ côi. Các tu sĩ này là những hạt nhân đầu tiên của một tu hội mới, ra đời với mục đích chăm lo giáo dục các trẻ em mồ côi nghèo khổ, noi gương Thánh Phanxicô Salê. Chính vì thế, từ năm 1854, các Cộng sự của Gioan Bosco được gọi là "Salêdiêng" (Salésienne).
Năm 1859, Gioan Bosco cùng với các đồng chí của mình chính thức thành lập Hội dòng của Thánh Phanxicô Đệ Salê (tiếng Latin:Societas Sancti Francisci Salesii), với hàm ý noi gương Đức ái Tông đồ, sự Hiền lành và lòng kiên nhẫn. Ngày 25 tháng 3 năm 1855, Micae Rua trở thành tu sĩ đầu tiên thực hiện lời tuyên khấn dòng. Năm 1860, Giuse Rossi trở thành Sư huynh đầu tiên được đón nhận vào Dòng. Sau đó, ngày 14 tháng 6 năm 1862, 22 tu sĩ Salêdiêng khác đã thực hiện lời tuyên khấn.
Gioan Bosco cũng đã thành lập Dòng Con Đức Mẹ phù hộ (còn được gọi là Dòng Nữ Salêdiêng Don Bosco) vào ngày 5 tháng 8 năm 1872. Năm 1876, ông thành lập Hiệp hội Cộng tác viên Salêdiêng. Ba Nhóm này và nhiều Nhóm được thành lập sau này liên kết với nhau thành Gia đình, một tổ chức xã hội Công giáo thống nhất. Vào năm 1872, ông tiếp tục lập thêm hai hội dòng khác: Hội Đức Mẹ hằng Cứu giúp để bảo trợ ơn gọi linh mục; Hội Dòng nữ Salésienne nhằm giáo dục các em cô nhi. Các tổ chức này có tầm ảnh hưởng rộng khắp ngay khi ông còn tại thế.
Với những nỗ lực không mệt mỏi của mình, Gioan Bosco kiệt sức, lâm bệnh và qua đời ngày 31 tháng 1 năm 1888 tại Torino, hưởng thọ 73 tuổi. Ghi nhận những công lao của ông với giáo hội và xã hội, 1909 được phong Á thánh, 2/6/1929 được phong Chân phước và 1/4/1934 Giáo hoàng Piô XI đã phong ngài lên bậc hiển thánh với biệt hiệu: CHA vàTHẦY của thanh thiếu niên.

Vua Đavít được xức dầu

Vua Sa-un đã bỏ không theo và thi hành các lệnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Giê-sê vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua."
Ông Sa-mu-en thưa: "Con đi thế nào được? Vua Sa-un mà biết thì vua sẽ giết con!" Thiên Chúa phán: "Ngươi hãy đem theo một con bò cái tơ và hãy nói: "Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Thiên Chúa. Ngươi sẽ mời Gie-sê đến dự hy lễ; phần Ta, Ta sẽ cho ngươi biết điều ngươi phải làm, và ngươi sẽ xức dầu tấn phong cho Ta kẻ Ta sẽ nói cho ngươi hay."

Ông Sa-mu-en làm điều Thiên Chúa đã phán; ông đến Bê-lem thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ. Khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: "Đúng rồi! Người Thiên Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Thiên Chúa đây!" Nhưng Thiên Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta không chọn nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng." Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: "Thiên Chúa không chọn những người này."
Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Gie-sê trả lời: "Còn đứa út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Sa-mu-en liền nói với ông Gie-sê: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây." Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Thiên Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!" Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng đựng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Thiên Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi. 

Vua Sa-un sai sứ giả đến với ông Gie-sê và nói với ông: "Ngươi hãy gửi cho ta Đa-vít, con ngươi, đứa chăn chiên." Ông Gie-sê bắt một con lừa, cho chở bánh, một bầu da rượu, và một con dê con, rồi sai Đa-vít, con ông, mang đến cho vua Sa-un. Đa-vít đến với vua Sa-un và chầu chực trước mặt vua. Vua thương cậu lắm và cậu trở thành người hầu cận của vua. Vua Sa-un sai người đến nói với ông Gie-sê: "Hãy để Đa-vít chầu chực trước mặt ta, vì nó được đẹp lòng ta." Khi thần khí Thiên Chúa xuống trên vua Sa-un, thì Đa-vít cầm đàn và gảy. Bấy giờ vua Sa-un nguôi bệnh, cảm thấy dễ chịu, và thần khí xấu rời khỏi vua.

Chúa Giesu ra đời như thế nào ?


Lễ Giáng Sinh là một nghi lễ đặc biệt quan trọng của nhà thờ Thiên Chúa Giáo được tổ chức vào ngày 25 tháng Mười Hai hàng năm. Mục đích của nghi lễ là nhằm tái hiện lại cảnh tượng Chúa Giê su ra đời, thể hiện lòng nhân từ và sự khiêm nhường của Đức Chúa. Xin giới thiệu với các bạn đoạn trích chương 2 trong cuốn kinh phúc âm Tân Ước để các bạn hiểu rõ thêm về lễ Giáng Sinh:
Chúa Giê Su ra đời: Người chăn chiên đến viếng thăm

Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-sê từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem, miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít vì ông thuộc về nhà và gia tộc với vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên ông cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc đấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt trong máng cỏ vì hai người không tìm được chỗ trong nhà trọ. Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả xung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ". Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

"Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương"
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: " Nào chúng ta sang Bê-lem để xem sự việc xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết ". Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại những điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe những người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ lại những kỉ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, về mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Ngôn Sứ Êlia làm cho mưa

Ông Ê-li-a, người Tít-be, nói với vua A-kháp rằng: "Có Lời Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en: trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh."

Thiên Chúa phán với ông như sau: "Ngươi hãy bỏ nơi đây đi về phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cơ-rít. Ngươi sẽ uống nước suối. Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy." Ông ra đi và làm như Thiên Chúa truyền. Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều, quạ cũng mang bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.


Nhưng sau một thời gian, suối cạn khô, vì không có mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán bảo ông: "Ngươi hãy đứng dậy đi Xa-rép-ta, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi ngươi." Ông liền đứng dậy đi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống." Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!" Bà trả lời: "Có Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết." Ông Ê-li-a nói với bà: "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Thiên Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này:
"Hũ bột sẽ không vơi vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Thiên Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất."

Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Thiên Chúa phán.
Bấy giờ, ông Ê-li-a đến bên dân và nói: "Chỉ sót lại mình tôi là ngôn sứ của Thiên Chúa, còn ngôn sứ của Ba-an có những 450 người. Hãy mang cho chúng tôi hai con bò mộng; chặt cả hai ra và đặt trên củi, nhưng đừng châm lửa. Đoạn các ngươi hãy kêu cầu danh thần của các ngươi; còn tôi, tôi kêu cầu danh Thiên Chúa. Vị thần nào đáp lại bằng lửa thì vị đó chính là Thiên Chúa thật. Toàn dân trả lời: "Đề nghị hay, xin hãy làm!"
Bấy giờ, ông Ê-li-a nói với các ngôn sứ Ba-an: "Các người chọn lấy một con bò và làm trước đi, vì các người đông hơn. Rồi hãy kêu cầu danh thần của các người nhưng đừng châm lửa." Vậy, họ lấy con bò người ta đưa cho họ, làm thịt, rồi kêu cầu danh thần Ba-an từ sáng tới trưa: "Lạy thần Ba-an, xin đáp lời chúng tôi! " Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời. Đến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng: "Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà! Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng đường xa; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi! " Họ càng kêu lớn tiếng hơn và theo thói tục của họ, họ dùng gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời, không người để ý.
Bấy giờ ông Ê-li-a dọn lại bàn thờ Thiên Chúa đã bị phá huỷ. Ông Ê-li-a lấy mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Gia-cóp, người đã được Thiên Chúa phán bảo rằng: "Tên ngươi sẽ là Ít-ra-en." Ông dùng các phiến đá ấy xây lại một bàn thờ kính Thiên Chúa. Ông xếp củi lên, rồi làm thịt con bò mộng và đặt trên đống củi. Ông nói: "Hãy đổ nước đầy bốn lu và tưới lên lễ vật và củi." Họ làm như vậy. Nước chảy tràn quanh bàn thờ, khiến đường mương chung quanh cũng đầy nước.
Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Ê-li-a tiến ra và nói: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời con, lạy Thiên Chúa, để dân này nhận biết Ngài là Thiên Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ." Bấy giờ lửa của Thiên Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: "Thiên Chúa quả là Thiên Chúa!" Ông Ê-li-a nói với họ: "Bắt lấy các ngôn sứ Ba-an, đừng để tên nào chạy thoát."
Sau đó, Ông Ê-li-a nói với vua A-kháp: "Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng mưa rào." Ông Ê-li-a thì lên đỉnh Các-men cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. Đoạn ông bảo chú tiểu đồng của ông: "Con đi lên và nhìn về phía biển." Nó đi lên, nhìn và nói: "Không có gì cả! " Ông bảo: "Hãy trở lại bảy lần." Lần thứ bảy, nó nói: "Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn tay đang từ biển bốc lên." Ông nói: "Con hãy lên thưa với vua A-kháp: xin vua ra xe và đi xuống kẻo bị kẹt mưa." Lập tức trời kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi trút mưa lớn".


Qua Biển Đỏ

Khi dân Ít-ra-en vừa đi khỏi, có người chạy báo tin cho vua Pha-ra-ô là Israen đã chạy trốn. Pha-ra-ô liền thay lòng đổi dạ ngẫm nghĩ: "Ta thật khờ dại quá? Ta đã thả cho Ít-ra-en đi, bọn chúng không còn làm nô lệ cho ta nữa. Ta phải bắt chúng lại phục vụ cho Ta."
Nhà vua cho chiến xa và quân lính đuổi theo. Vua lấy 600 chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh hùng mạnh. Quân lực Pharaô đuổi theo và bắt kịp Ít-ra-en, khi họ đóng trại bên bờ biển Ha-khi-rốt.
Khi Pha-ra-ô tới gần, Con cái Ít-ra-en kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu Thiên Chúa. Họ nói với ông Mô-sê: "Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì vậy chứ, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết khô trong sa mạc!"

Ông Mô-sê nói với dân: "Đừng sợ! Rồi anh em sẽ thấy việc Thiên Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. Thiên Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên."
Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước dân Ít-ra-en liền rời chỗ mà đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây tỏa khói mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được.
Nghe lời Thiên Chúa, Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Thiên Chúa cho một cơn gió thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra làm hai, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên.

Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển sau dân Ít-ra-en. Vào lúc gần sáng, Thiên Chúa gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: "Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Thiên Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ."
Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng." Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Thiên Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.
Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập

Chúa hiện ra với Môsê trong bụi gai

Một hôm, Ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô. Ông dẫn đàn chiên qua sa mạc đến núi Khô-rếp. Thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông trong lửa cháy giữa bụi gai. Mô-sê thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được".

Từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê!" Ông thưa: "Dạ, có con đây! " Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh. Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa thì chết.
Thiên Chúa phán: "Ta đã thấy cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Ta muốn giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng tới một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật. Ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với vua Pha-ra-ô để đưa dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập."
Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Vua Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập? Vả lại con không biết nói năng." Chúa phán: "Ta sẽ ở với ngươi. Bây giờ, đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì ngươi trả lời họ: "Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu." Đó là danh Ta muôn thuở, danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia."
Ngươi hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em, đã hiện ra với tôi và phán: Ta thật sự quan tâm đến cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai-cập. Ta sẽ cho các ngươi thoát cảnh khổ cực bên Ai-cập mà lên miền đất người Ca-na-an tràn trề sữa và mật. Họ sẽ nghe tiếng ngươi, rồi ngươi sẽ đi với các kỳ mục Ít-ra-en đến cùng vua Ai-cập nói với vua ấy rằng: Thiên Chúa của người Híp-ri đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây, xin cho chúng tôi đi vào sa mạc để tế lễ Thiên Chúa chúng tôi. Ta biết rằng vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ khi có bàn tay quyền năng của Ta can thiệp. Ta sẽ làm các phép lạ giữa dân Ai-cập để đánh nó, và sau cùng, vua ấy sẽ cho các ngươi đi".

KÍNH LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI ( 15/8 )

BA NGÔI THIÊN CHÚA TÔN VINH MẸ MARIA TRÊN THIÊN ĐÀNG 
-Chúa Cha phán: "Maria là Nữ tì của Chúng Ta, từng làm nên những niềm hân hoan đầu tiên của Chúng Ta, và đã không bao giờ bỏ mất tước hiệu ấy. Người có toàn quyền trên cả Vương Quốc Chúng Ta. Người được nhìn nhận và tôn phong là Chủ Mẫu chính thức vừa là Nữ Vương độc nhất". 
- Chúa Con phán: "Hết mọi thụ tạo Cha đã sáng tạo và cứu chuộc đều thuộc quyền Mẹ chân thực của Cha: Mẹ là Nữ Vương chính thức cai trị tất cả những gì Cha là Vua cai trị".
- Sau cùng Chúa Thánh Linh phán: "Hỡi Bạn, với danh nghĩa là Hiền Thê của Ta, danh nghĩa mà Bạn đã tận trung ứng đáp, Bạn được lĩnh vương miện Nữ Vương cho đến muôn đời".
Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một vương miện vinh quang cực kỳ lộng lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ, sẽ không bao giờ có nữa. Cùng lúc ấy, từ ngai Chúa phán ra lời này:
"Hỡi Người Chí Ái của Chúng Ta, Vương Quốc của Chúng Ta là Vương Quốc của Người. Người là Chủ Mẫu, là Nữ Vương hết mọi thụ tạo. Từng được ân sủng nâng cao lên trên mọi loài, nhưng Người đã tự nhận mình hèn kém, hạ mình xuống dưới hết mọi loài. Giờ đây, Người hãy lên chiếm địa vị tuyệt cao xứng với Người. Từ ngai cao cả này, Người hãy thống trị toàn thể thụ tạo: hỏa ngục, trần gian và thiên đàng. Ma quỉ, loài người và thiên thần đều phải tùng phục Người. Chúng Ta trao ủy cho Người quyền bính thần linh của Chúng Ta. Người sẽ nâng đỡ, ủi an, bảo trợ và làm Mẹ của hết mọi người công chính cũng như làm Mẹ của cả Giáo hội chiến đấu. Để thi hành sứ mệnh đó, một lần nữa Chúng Ta tôn nhiệm Người làm Đấng Bảo Quản, Đấng Phân Phát mọi kho tàng của Chúng Ta. Những gì thuộc quyền Chúng Ta cũng thuộc quyền Người, như Người đã luôn luôn là của Chúng Ta".
trích (THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM CHƯƠNG 55)

Video 3d Album



Video được tạo bằng phần mềm 3d album kết hợp với Cyberlink powerdirector 10
3d album : http://www.mediafire.com/download/fc60f8s9q84i5lw/SinhVienIT.Net---3D-ALBUM.Commercial.Suite.v3.29.rar