Hoan Ca Mừng Chúa Giáng Sinh


              
               Ông Già Noel Vui Tính                         
                                        Thể hiện : Ngọc Ánh & Hồng Minh




Khúc Ca Tạ Ơn - Giới Trẻ Trại Vàng







                 Tình Con Yêu Chúa ( Múa ) - Các em nghành nghĩa 





             Giáng Sinh Ngọt Ngào - TNTT Gò Trái

Đang cập nhập ............


































Câu Chuyện Kể Từ Đó

1993 – Câu chuyện kể từ đó
Nhà nguyện lấp ló Đức Tin dần sáng tỏ
Thăng trầm lớn nhỏ thêm củng cố lòng tin.

Chúa định sẵn Cố Xa-ve đến tìm ( Cha Cố Xa-ve: Người Pháp)
Rắc gieo hạt mầm đầu tiên cho Làng Thánh
Đơn sơ tấm lòng Kính, Tin, Cậy, Mến
Vun đắp giữ gìn để đến mãi về sau.

Quý Dậu năm ấy Cố Giu-se bắt đầu (Năm1993, Cha Giu-se Nguyễn Thái Hà)
Đặt nền móng đầu tiên bằng những đá
Đá kiên trung xây Giáo Hội vững bền.

Tuổi thời gian cũng điểm lên Thánh Đường
Hằn in, mờ ẩn mầu nhiệm Chúa ngự sinh
Chiên lành đồng tâm cùng Cha quản hết mình (Cha quản xứ Giu-se Nguyễn Văn Tuyến)
Ơn Chúa giữ gìn nâng đỡ giúp đoàn chiên.

Ất mùi (2015) dần qua dở dang còn hẹn ước
Bính Thân (2016), Đinh Dậu (2017), Mậu Tuất (2018) sẽ đáp lời
Vẫn ở đây nhưng Đức Tin không gian mới
Kính dâng lên Ngài – Đấng Cứu Thế ngự lòng chiên.

                                                                Con Của Cha
                                                                                         11/12/2015


                                                           

Chúa giêsu hiện về ở Tình Lam Đại Thành Quốc Oai Hà Nội


 
Chúa Giêsu hiện ra ở Tình Lam Đại Thành Quốc Oai Hà Nội


Chúa giêsu hiện xuống,loan báo tin mừng ,đổ máu, toàn thân chúa ướt đẫm,toan dân chứng kiến từng giọt máu chảy thành dòng, tấm vải tre thân bỗng dưng trắng toát, sự việc sảy ra chiều nay ngày chủ nhật 6.12.2015 tại nhà bác lục tôi ở thôn tình lam đại thành quốc oai
Người đàn ông không tin,khi cầm bức ảnh chúa giesu đã khóc lên khi bức ảnh dính chăt vào tay nhiều người lôi ra không được,sau đó ảnh chúa thương sót lại đổ máu từ 2 cánh tay

































































































Lụt hồng thuỷ thời Noê

Con người sống hư hỏng, sống gian ác và làm điều dữ trên mặt đất. Thiên Chúa buồn rầu và hối hận vì đã làm ra họ bởi họ sống trái mắt Thiên Chúa.
Thiên Chúa phán: "Ta sẽ xóa bỏ con người mà Ta đã sáng tạo cùng với mọi thú vật trên trời dưới đất". Nhưng ông Nô-ê là người sống công chính và đẹp lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn cứu sống ông và gia đình

Ông Nô-ê có ba người con là Sêm, Kham và Gia-Phét. Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Ta đã quyết định số phận của con người trên mặt đất. Ta sẽ xóa bỏ chúng vì họ sống gian ác. Ngươi hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ: chiều dài 150 thước, chiều rộng 25 thước, chiều cao 15 thước. Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu. Ngươi sẽ làm tàu có nhiều tầng: tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên.

Ta sắp cho mưa lớn đổ xuống và nước sẽ dâng cao trên mặt đất. Nhưng Ta sẽ lập giao ước của Ta với ngươi. Ngươi, vợ ngươi cùng với các con trai, vợ của các con trai ngươi hãy vào tàu .
Trong các loài thú vật,  ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi. Mỗi đôi là một con đực và một con cái. Trong mỗi loại chim, mỗi loại gia súc, mỗi loại bò dưới đất, mỗi loại một đôi mang lên tàu cho chúng sống với ngươi.
Hãy lấy tích trữ thức ăn cho gia đình mình và cho các thú vật. Đó sẽ là lương thực nuôi sống gia đình ngươi và các thú vật trên tàu." Ông Nô-ê đã làm đúng như lời Thiên Chúa đã truyền cho ông.
Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào tàu, vì Ta chỉ thấy có ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này.
Bảy ngày nữa Ta sẽ cho mưa xuống trên mặt đất trong vòng 40 ngày 40 đêm, và Ta sẽ xoá khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra." Ông Nô-ê làm đúng như Thiên Chúa đã truyền. Ông Nô-ê được 600 tuổi khi lụt hồng thuỷ xảy đến trên mặt đất. Ông Nô-ê vào trong tàu và Thiên Chúa ở ngoài đóng cửa tàu lại.

Lụt hồng thủy kéo dài 40 ngày trên mặt đất. Nước dâng lên cao trên mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước. Mọi ngọn núi cao ở khắp nơi đều bị nước phủ lấp. Ông Nô-ê, gia đình ông và những gì ở trong tàu với ông đều sống sót.

Hết 40 ngày, ông Nô-ê mở cửa sổ trên tàu, rồi thả bồ câu ra để xem nước đã cạn khô hay chưa. Vào buổi chiều, con bồ câu bay trở về với ông, và kìa trong mỏ nó có một cành ô-liu xanh tươi! Ông Nô-ê biết là nước đã khô cạn trên mặt đất.
Thiên Chúa phán với ông Nô-ê rằng: "Ngươi hãy ra khỏi tàu cùng với vợ ngươi, các con trai ngươi và vợ của các con trai ngươi. Mọi loài vật ở với ngươi, tất cả chim chóc, gia súc, mọi sinh vật bò dưới đất, ngươi hãy đưa chúng ra với ngươi; chúng phải sinh sôi nảy nở thật nhiều trên mặt đất."
Ông Nô-ê làm một bàn thờ để kính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã cứu thoát ông. Ông bắt một số các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. Hương thơm lễ vật làm Thiên Chúa hài lòng và Thiên Chúa tự nhủ: "Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa".

Hai anh em Cain và Aben

Ông Adong và Bà Evà sinh được người con thứ nhất là Ca-in. Bà Evà vui mừng nói: "Nhờ Thiên Chúa, tôi đã có được một người con nối dòng".
Sau đó, bà sinh ra A-ben, em của Ca-in. A-ben thích ra đồng chăn chiên và súc vật, A-ben bắt những con chiên đầu lòng làm thịt cùng với mỡ của chúng lên Thiên Chúa. Còn Ca-in làm nghề cầy cấy và canh tác đất đai. Ca-in lấy những hoa trái của đất đai làm lễ vật dâng lên Thiên Chúa.

Thiên Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, vì ông dâng lên Thiên Chúa với lòng thành kính, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt.
Thiên Chúa phán với Ca-in: "Tại sao ngươi giận dữ và sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang rình rập ngoài tâm hồn, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chống lại nó."

Ca-in nói với em là A-ben: "Chúng mình ra ngoài đồng đi! " Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình. Thiên Chúa phán với Ca-in: "A-ben em ngươi đâu rồi? " Ca-in thưa: "Con không biết. Con là người trông giữ em con hay sao? " Thiên Chúa phán: "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất." Ông Ca-in đi xa khuất mặt Thiên Chúa về phía đông Ê-đen.

Một chọn lựa sai lầm

Rắn là loài dối trá nhất trong vườn. Một hôm con rắn nói với Evà: "Có phải Thiên Chúa cấm ông bà không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?". 


Evà đáp: "Đúng thế, hết mọi cây trong vườn thì được ăn , ngoài trừ có cây ở giữa vườn thôi . Chúa bảo không được ăn kẻo phải chết ".

Rắn liền cám dỗ Evà: "Chẳng chết chóc gì đâu bà ơi, nếu Chúa biết ngày nào bà ăn trái đó, bà sẽ là một thần linh khôn ngoan biết điều tốt, điều xấu".
Evà nhìn trái cây thì thấy đẹp mắt và ngon. Bà liền đưa tay hái ăn và đưa cho chồng cùng ăn. Khi họ vừa ăn thì mắt họ mở ra, và họ biết điều tốt điều xấu đúng như lời Thiên Chúa phán. Họ mắc cở chạy tìm lá che thân vì thấy mình trần truồng. Họ đã phạm tội không vâng lời Thiên Chúa.

Chiều đến, Thiên Chúa đi trong vườn, Ngài gọi Adong từ xa: "Adong, ngươi ở đâu?".  Adong thưa: "Con nghe tiếng Ngài, nhưng vì trần truồng nên con lẩn trốn". Thiên Chúa hỏi: "Có phải ngươi đã ăn trái Ta cấm không?".  Adong đáp: "Evà đã đưa trái đó cho con và con đã ăn". Chúa hỏi Evà: "Ngươi đã làm gì thế?" Evà đổ lỗi cho con rắn: "Con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn".
Chúa nguyền rủa con rắn: "Bởi vì mi đã lừa dối người ta, nên mi sẽ phải bò bằng bụng suốt đời mi". Rồi Chúa nói với Avà: "Vì các ngươi không vâng lời Ta, nên ngươi sẽ phải mang nặng, khi sinh đẻ thì đau đớn". Và Chúa nói với Adong: "Ngươi sẽ phải làm việc vất vả mới có bánh để ăn, vì đất sẽ trổ sinh gai góc".
Thiên Chúa làm cho họ những chiếc áo che thân và mặc cho họ. Ngài mang họ ra khỏi vườn, và họ bắt đầu một cuộc sống vất vả.

Adong và Evà người đầu tiên trên mặt đất


Ngày Thiên Chúa dựng nên trời và đất, Thiên Chúa cho một dòng nước dưới đất trào lên tưới khắp địa cầu. Thiên Chúa lấy đất nặn ra con người giống hình ảnh Chúa, vì Chúa muốn chia sẻ tình thương với con người. Chúa thổi hơi vào lỗ mũi và con người liền trở nên sinh vật có sự sống. Con người bắt đầu đi đứng, hít thở và trái tim cũng bắt đầu đập. Con người đầu tiên đó là Adong.
Thiên Chúa trồng một vườn cây Êđen hay còn gọi là vườn điạ đàng. Thiên Chúa cho đủ mọi thứ cây mọc lên, nở hoa xinh đẹp và trái ăn thì rất ngon. Ở giữa vườn, Chúa cho mọc lên cây trường sinh, là cây biết điều tốt, điều xấu. Một con sông từ Êđen chảy ra chia làm bốn nhánh tưới khắp vườn. Chúa mang con người đặt vào vườn địa đàng để sinh sống và canh giữ vườn.
Chúa truyền cho con người được ăn hết mọi thứ cây trong vườn, cả ngàn ngàn cây khác nhau, nhưng  chỉ có trái cây ở giữa vườn là cây biết điều tốt điều xấu thì Thiên Chúa nói con người không được ăn kẻo sẽ phải chết.

Thấy con người sống một mình cô đơn, Chúa làm ra nhiều thú vật, chim trời dẫn đến vây quanh con người. Hễ con người gọi tên là gì, thì đó là tên của con thú đó. Thế nhưng, con người vẫn không tìm được người bạn tương xứng với mình. Chúa biết điều đó, và Chúa đợi lúc Adong ngủ say, Chúa rút cái xương sườn của Adong ra. Chúa lấy xương sường đó làm nên người đàn bà xinh đẹp. Lúc Adong thức dậy, Chúa dẫn người đàn bà tới gặp Adong. Adong mừng lắm vì có người bạn đồng hành. Adong gọi người đàn bà là Evà. Hai người sống hạnh phúc với nhau.

Thiên Chúa Dựng Nên Trời Đất

Ngày xưa khi chưa có trời và đất, bóng tối bao trùm vực thẳm, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước.

Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng". Liền có như vậy. Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Ánh sáng là ban ngày, và bóng tối là ban đêm. Đó là ngày thứ nhất.
Thiên Chúa lại phán: "Phải có bầu trời ở phía trên để chia với nước ở phía dưới. Nước dưới bầu trời phải tụ lại một nơi là biển, còn chỗ cạn nhô ra là đất liền". Tức thì liền có như vậy. Đó là ngày thứ hai.
Thiên Chúa lại phán: "Đất phải mọc lên nhiều cây cối xanh tươi, nở hoa, kết trái tuỳ theo loại, và mang hạt giống". Tức thì iền có như vậy. Đó là ngày thứ ba.
Thiên Chúa lại phán: "Phải có vầng ánh sáng trên trời, phân biệt ngày và đêm". Thiên Chúa cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng và muôn ngàn vì sao, tinh tú chiếu sáng ban đêm. Tức thì iền có như vậy. Đó là ngày thứ tư.
Thiên Chúa lại phán: "Nước phải sinh ra nhiều loài tôm cá, và trên trời phải có nhiều chim cò bay lượn". Chúa chúc phúc cho chúng sinh sản thật nhiều. Tức thì iền có như vậy. Đó là ngày thứ năm.

hiên Chúa lại phán: "Đất phải sinh ra nhiều thú vật, gia súc, các loài bò sát và côn trùng". Liền có như vậy. Thấy tốt đẹp và Thiên Chúa phán: " Ta hãy làm ra con người có nam, có nữ giống hình ảnh của Ta, để họ làm chủ mọi thứ trên mặt đất". Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho họ sinh sản ra nhiều trên mặt đất. Đó là ngày thứ sáu.
Sau khi hoàn thành việc tạo dựng trời đất. Ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó.

Đôi Nét Về Giáo Xứ Trại Vàng

Giáo Xứ Trại Vàng tọa lạc trên địa bàn xã Đông Yên- huyện Quốc Oai- Hà Tây nay là TP. Hà Nội.

Đón nhận tin mừng từ năm 1906, Trại Vàng đã trải qua biết bao thăng trầm của thời đại, bao khó khăn, trở ngại nhưng trên hết bằng niềm tin và ánh sáng Chúa soi đường dẫn lối, những người con của Trại Vàng vẫn sắt son một lòng trung thủy để duy trì và phát triển xứ đạo không ngừng lớn mạnh, từ một giáo họ trực thuộc giáo xứ Vĩnh Lộc do Cha Giuse Nguyễn Thái Hà giám quản, năm 2006 Đức Giám Mục Antôn Vũ Huy Chương đã nâng giáo họ lên thành Phiên xứ Trại Vàng và đặt trọng trách giám quản lên vai Cha Giuse Đặng Văn Mạnh, không bao lâu sau, năm 2007 Ngài kí quyết định chính thức thành lập Giáo Xứ Trại Vàng và trao gửi nhiệm vụ quản xứ lên Cha Giuse Nguyễn Văn Tuyến sau khi Cha Mạnh thuyên chuyển xứ. 

Nhìn về quá khứ, Năm 1993 Cha Hà quyết định xây dựng một ngôi thánh đường, đặt tại vị trí trung tâm của làng Trại Vàng và nhận thánh Anton Paduava làm quan thầy. Cũng từ đó hạt giống đức tin cùng ngôi Thánh Đường cứ âm thầm lớn lên trong niềm tin, và gieo rắc để lại niềm tin ơn cứu độ cho các các thế hệ  con cháu mai sau noi theo.

Thế rồi năm tháng cứ trôi qua theo giòng thời gian, và trải qua bao thăng trầm của cuộc sống vật chất lẫm với tinh thần của các bậc cha ông, nhưng ngôi thánh và niềm tin ấy của cha ông đã có Chúa Đức Mẹ thánh quan thầy đồng hành đã vươn lên theo thời gian. Và hình thành một cách hoàn thiện hơn. 

Giáo xứ Trại Vàng hiện nay đã có 10 giáo họ, 2600 nhân danh,  trong có các hội đoàn gồn ban giáo lý viên, như huynh đoàn đa minh, hội monica, ban ca đoàn, ban lễ sinh, thừa tác viên, nghĩa binh Thánh Thể,  ban trật tư, ban trống, và ban thường trực hội đồng giáo xứ....
Trải qua bao nhiêu năm tháng ngôi nhà giáo xứ đã bị xuống cấp ,nhằm mong muốn cải thiện nhà Chúa trong tâm hồn cũng như bên ngoài vây nên, năm 2015 dưới sự linh hướng của chúa Thánh Thần,được sự đồng ý của Đức Giám Mục Gioan Maria Vũ Tất và sự ủng hộ của cha quản xứ Giuse nhà thờ mới đang bắt đầu được khởi công.
Sự khởi công này đánh dấu bước ngoặt lớn nhằm nâng cao tình đoàn kết giữa các giáo họ trong giáo xứ đồng thời thể hiện lòng thành kính đối với Chúa. Nhưng để có được điều này giáo xứ Trại Vàng rất cần đến sự ủng hộ từ các bậc ân nhân xa gần, sự ủng hộ về vất chất cũng như tình thần của các anh em trong toàn giáo xứ. Vậy nên giáo xứ Trại Vàng rất mong nhận được những lời cầu nguyện từ mọi người.
 Nguyện xin Thánh Tâm Chúa Giesu là đấng giầu Lòng Thương Xót xin tuôn đổ hồng ân trên quý vị và gia đình, cũng như những ai ghé thăm giao xứ Trại Vàng  xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong tâm hồn quý vị ngọn lửa yêu mến và lòng tín thác vào chúa. và xin Mẹ Maria và thánh quan thầy cầu bầu cùng Chúa cho quy vị, và tôi xin thành tâm kính chúc quý vị,trong mọi lứa tuổi, được thành đạt trong mọi ước mơ trong cuộc sống hiện tại và tương lai của mỗi người chúng ta, đồng thời tôi xin chúc các bạn trẻ, luôn vui trẻ hồn nhiên và yêu đời và đầy sáng tạo.
                                          
                                                                  Nguyễn Thị Thu Thủy
                                                                                    


Giáo Xứ Trại Vàng







                      A

Nguồn Gốc Lễ Cầu Hồn và Tháng Các Linh Hồn

Tháng 11-Tháng Các Linh Hồn. Nguồn gốc lễ Cầu hồn và tháng Các linh hồn.
Ngày 01.11, Lễ trọng kính các Thánh Nam Nữ, các ngài đã được vinh hiển nhờ tình thương của Chúa nhân lành, các ngài được chia sẻ hạnh phúc sung mãn của Chúa. Giờ đây, trên trời, các ngài được chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa, đồng thời các ngài cũng đang cầu bầu và chờ đợi chúng ta. Các ngài là Giáo Hội khải hoàn, Giáo Hội vinh thắng sau cuộc chiến ở trần gian.
Ngày 02.11. Lễ cầu cho các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện hình, toàn thể Giáo Hôị dâng thánh lễ, cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn đã qua đời, đó là tổ tiên ông bà cha mẹ, mà hôm nay chúng ta thương nhớ tưởng niệm, hiệp thông để cầu nguyện trong lòng tin, thể hiện niềm thảo kính ấy, "vì tưởng nhớ, cầu nguyện cho những người đã an nghỉ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc đạo đức và thánh thiện" (2Mcb 12,53-45)
Nguồn gốc lễ Cầu hồn và tháng Các linh hồn
Theo Xuanha
Theo sách vở ghi lại, thì thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany.
Ngài là người thánh đức, thường cầu nguyện, hi sinh , và dâng lễ cầu cho các linh hồn đã qua đời.
Truyện kể rằng:
Một hôm, một đan sĩ Dòng ngài đi viếng Đất thánh Giêrusalem. Trên đường trở về Đan viện Cluny. Tàu chở đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn sĩ và được ẩn sĩ cho biết:
"Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên Thiên đàng và là sự đau khổ cho quỉ dữ dưới Hỏa ngục".
Sau khi nghe biết sự việc này, cha Odilo đã lập lễ Cầu hồn vào ngày 2 tháng 11 và trước hết cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói năm 1030). Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nuớc Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma.
Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn, họ đi thăm viếng, sửa mồ mả cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn, họ hát những bài ca cổ truyền cổ động cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục.
- Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là "Ngày người chết". Ngày đó, người ta có thói quen tụ họp các trẻ mồ côi tới gia đình họ rồi cho chúng ăn, cho quần áo, cho quà bánh, đồ chơi.
- Tại miền quê nước Poland, người ta kể: nửa đêm lễ Cầu hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo xứ, để các linh hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu ơn giải thoát khỏi luyện ngục. Người ta nói là, sau đó trở lại thăm lại nhà mình, thăm nơi mình quen thuộc, làm việc mình đã làm khi còn sống. Và để đón tiếp những linh hồn này, người ta để cửa sổ mở suốt đêm mùng 2.
...........
- Tại Việt nam, nhất là miền Bắc, trước Công đồng Vaticanô 2 (62-65) người ta thường sửa mồ mả cha ông vào dịp Tết Nguyên đán đầu năm Âm lịch, tính theo mặt trăng, còn lễ Cầu hồn, người ta đi viếng các nhà thờ chung quanh suốt ngày lễ Các Thánh để lãnh ân xá chỉ cho các linh hồn đã qua đời. Cảnh người lớn trẻ em tấp nập ra vào rất vui vẻ. Người ta dự lễ và xin lễ rất nhiều để cầu cho Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ sớm về hưởng phước Thiên đàng.

( Cử Điệu ) Một Chút Duyên Một Chút Tình



                                 ( Cử Điệu ) Một Chút Duyên Một Chút Tình
                                                                               




















































































VUI TẾT TRUNG THU ( Tổng hợp văn nghệ vui tết trung thu 2015 giáo xứ trại vàng )





                                       Chắp Cánh Ước Mơ




                                                  Múa Ấn Độ




                                                Thỏ Đi Tắm Nắng



                                                   Hài kịch : Trời Sập Đêm Trung Thu




                                  Con Muốn Chúa Là Người Việt Nam




                                     Như Một Vầng Trăng




                            Về Quê Cũ


( Hài Kịch ) TRỜI SẬP ĐÊM TRUNG THU

Tết Trung Thu theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ.
Tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755).


Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .

Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.

Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy chồng.

Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được ông Phan Kế Bính diễn tả trong "VN Phong tục": "ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp".

Sự tích chị Hằng Nga:

Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.

Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.

Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.

Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.

Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.

Sau đây là vở hài kịch ( Trời sập đêm trung thu ) do các diễn viễn hài của Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể   Padova  Giáo Xứ Trại Vàng thể hiện mời các bạn cung xem



CÂU CHUYỆN HAI CHIẾC CỐC -TÌNH YÊU CỦA NHỮNG CHÀNG TRAI

Câu chuyện hai chiếc cốc - tình yêu của những chàng trai
Lời tựa: Tình cảm thế giới tụi mình mong manh lắm, khó giữ lắm. Xin hãy trân trọng nó như một món quà mà thượng đế ban tặng... Sự ích kỷ, sự toan tính đôi lúc sẽ làm ta đánh mất nó... để rồi phải tiếc nuối...
***********
Hãy cùng nghe câu chuyện về 2 chiếc cốc để ngẫm nghĩ thêm cho tình cảm của mình:
Tôi là một chiếc cốc. Không phải cốc thường đâu, mà là cốc đôi đấy nhé. Bạn biết cốc đôi là gì không? Là hai chiếc cốc làm thành một đôi đấy. Tôi và bạn tôi đều được sơn màu xanh da trời nhạt rất dễ thương. Chúng tôi được đóng gói lại trong một cái hộp, sau đó được đưa vào siêu thị và nằm yên trên giá đợi chủ nhân của mình.
Chúng tôi phải đợi khá lâu ở đó. Mấy người bạn khác của chúng tôi có màu hồng hay vàng thì bán rất chạy. Các cô gái (những người thường hay đi siêu thị nhất) khi nhìn thấy họ liền kêu lên: "Ô, dễ thương chưa kìa! Mình sẽ mua cho mình và anh í một đôi." Hừm, tụi tôi cũng dễ thương mà. Sao không mua tụi tôi cơ chứ ??? Nghe mấy người quản lý nói màu xanh không được ưa chuộng cho lắm, có lẽ vì là màu lạnh, lại là màu thường dùng cho nam giới nhiều hơn. Bạn tôi thấy vậy buồn lắm. Tôi phải an ủi cậu ấy : "Không sao đâu, đừng lo mà. Chắc chắn vẫn có người thích tụi mình chứ." Nói vậy thôi chứ tôi cũng lo lắm, giả sử mãi mà không có ai mua thì tụi tôi sẽ bị đem vào kho mất.
Một buổi tối muộn, siêu thị sắp đóng cửa, bọn tôi nằm dài trên giá hàng và đợi tới giờ đi ngủ. Bỗng một bàn tay thon mảnh chạm vào cái hộp đựng, hai đứa bọn tôi đều giật thót mình. Trái với dự đoán, người vừa nhấc chúng tôi xuống là một cậu con trai. Cậu ngắm nghía bọn tôi với vẻ hài lòng. Tôi khấp khởi mong cậu sẽ mua chúng tôi. Lúc ấy, một cậu con trai khác tới phía sau cậu, nhắc :
"Muộn rồi đấy. Về thôi không siêu thị đóng cửa bây giờ."
Cậu cười rạng rỡ, đưa cái hộp có chứa chúng tôi cho cậu con trai kia xem :
"Xem này, hay không ? Mình mua một đôi nhé."
"Trời ! Sao em trẻ con quá vậy ???" - Cậu trai kia vừa nói vừa cười nhưng rốt cuộc cũng cầm lấy cái hộp và bỏ vào giỏ hàng. Cả hai chúng tôi đều thở phào nhẹ nhõm. Cuối cùng thì chúng tôi cũng không phải kết thúc cuộc đời mình trong nhà kho tăm tối, bẩn thỉu.
Hai cậu mang chúng tôi về nhà. Bởi vì họ chỉ gọi nhau là "anh... anh...", "em...em..." nên tôi đành gọi cậu đã lấy chúng tôi từ trên giá xuống là Tóc Nâu (còn mắt cậu ấy thì màu xanh nhạt, giống như màu của chúng tôi ấy. Có lẽ vì thế mà cậu chọn mua chúng tôi chăng ?!), cậu kia thì là Mắt Đen (tóc cậu ấy cũng màu nâu nên gọi thế này cho dễ phân biệt.) Tóc Nâu mang chúng tôi về, liền lấy ra lau rửa rất sạch sẽ. Tôi cứ tưởng các cậu ấy mua chúng tôi để làm quà tặng, nhưng Tóc Nâu lại xếp bọn tôi vào một cái khay để trên bàn. Thế là chúng tôi bắt đầu một cuộc đời mới.
Tôi được Tóc Nâu chọn làm cốc của cậu ấy. Để phân biệt với người anh em sinh đôi của tôi, cậu nghĩ ra một trò rất thú vị (ấy là theo ý cậu thôi). Cậu bảo với Mắt Đen :
"Em vẽ hình mặt cười lên cốc của mình. Còn anh vẽ hình mặt giận lên cốc của anh nhé."
Mắt Đen chau mày. Có thể thấy rõ cậu ấy không thích cái trò trẻ con vớ vẩn này chút nào.
"Anh không vẽ đâu. Cứ để nguyên nó không đẹp hơn à ?!"
Tóc Nâu phụng phịu mất một lúc, nhưng hình như vì cậu không muốn làm Mắt Đen giận nên rốt cuộc chỉ có mình tôi là bị vẽ lên. Tóc Nâu vẽ hình mặt cười ở một bên và hình mặt giận ở bên kia. Vẽ xong, cậu vui vẻ chìa cho Mắt Đen xem :
"Khi nào em buồn, em sẽ quay cái mặt giận về phía chỗ anh ngồi. Còn khi em vui hoặc đã tha thứ cho anh, em sẽ quay mặt cười nhé !"
Mắt Đen cũng phải bật cười trước ý nghĩ ngộ nghĩnh của Tóc Nâu. Cậu tiến lại gần Tóc Nâu, vòng tay qua người và kéo sát cậu ấy về phía mình. Rồi môi hai người chạm vào nhau, rất lâu. À, hình như cái này trên tivi sáng nay có chiếu. Người ta gọi là gì nhỉ ? Tôn... à không...Hôn mới đúng. Nhưng mà tôi chỉ thấy hai người nam nữ hôn nhau thôi, chứ chưa thấy hai cậu con trai làm thế bao giờ. Oài, thế giới này quả vẫn còn nhiều điều mà một cái cốc như tôi chưa biết !
Chúng tôi đã cùng sống bên cạnh họ như vậy. Ban ngày, cả Tóc Nâu và Mắt Đen đều phải đi học. Buổi chiều, bao giờ Tóc Nâu cũng là người về nhà sớm hơn. Cậu lau dọn nhà cửa, nấu sẵn đồ ăn đợi Mắt Đen về. Khi Mắt Đen vừa mới tới cửa, Tóc Nâu đã nhận ra ngay lập tức. Cậu lao ra, ôm chầm lấy Mắt Đen và ríu rít đủ mọi thứ trên đời. Tội nghiệp Mắt Đen, vừa phải cố gắng đứng vững cho khỏi bị ngã ngửa ra phía sau, vừa kéo Tóc Nâu vào nhà. Sau bữa cơm, Tóc Nâu pha đồ uống – có thể là nước cam, nước chanh hoặc sữa... - rồi rót ra cốc (tức là chúng tôi ấy) và cùng uống với Mắt Đen trong khi xem tivi. Họ nói rất nhiều chuyện với nhau, tới mức chúng tôi phát buồn ngủ nên không thể theo dõi tiếp được. Cuối cùng, họ cùng nhau đi ngủ.
Nhưng dạo này, mọi chuyện dường như đã có sự thay đổi. Tuy Tóc Nâu vẫn về trước, vẫn lau dọn và nấu ăn, nhưng Mắt Đen thì lại về rất muộn, có khi còn không về. Nhiều hôm, Tóc Nâu ngồi đợi, đợi mãi cho tới khi cơm canh đều nguội lạnh cả. Lúc ấy, nước mắt cậu lã chã tuôn rơi. Giá mà tôi nói được, tôi đã có thể an ủi cậu ấy một chút. Khi khóc chán, Tóc Nâu dọn đồ ăn bỏ vào tủ lạnh, nhưng cậu luôn để một mảnh giấy trên bàn. Mảnh giấy viết : "Nếu anh về mà thấy đói thì có thức ăn ở trong tủ lạnh đấy." Xong xuôi, cậu còn đợi thêm một lúc nữa rồi mới chịu đi ngủ. Trước khi tắt đèn, cậu xoay tôi – phía có mặt giận - về hướng chỗ ngồi của Mắt Đen.
Khi Mắt Đen quay về - thường là tận sáng hôm sau - cậu liếc nhìn qua tôi và mảnh giấy ; rồi cậu vào phòng ngủ. Khi trở ra, cậu lại đi cùng Tóc Nâu. Tóc Nâu mắt đỏ hoe nhưng khuôn mặt đã vui vẻ như cũ.
Nhưng những sự việc như vậy diễn ra ngày càng thường xuyên. Bạn tôi nằm khô cong trên khay, lâu lắm rồi Mắt Đen chẳng sờ tới cậu ấy. Tóc Nâu vẫn chờ đợi, nhưng tôi không còn thấy cậu ấy khóc nữa. Cậu nhìn chăm chăm vào tôi với ánh nhìn buồn bã vô hạn. Nếu tôi không phải là một chiếc cốc thì chắc hẳn tôi cũng đã oà khóc lên rồi.
Khi Mắt Đen quay lại, mọi việc cũng chẳng khá hơn. Hai người thường xuyên cãi nhau. Lần cuối cùng họ đã có một trận khẩu chiến nảy lửa :
"Không phải anh đã nói ngay từ đầu rồi sao ??? Chuyện này không phải là thực. Có một lúc nào đó nó sẽ phải kết thúc."
"Kết thúc ? Tại sao lại là lúc này ? Em đã làm gì sai sao ???"
"Anh đã có bạn gái rồi. Anh muốn kết hôn. Anh muốn có sự nghiệp. Anh cần phải ổn định cuộc sống. Sao em không chịu hiểu cho anh cơ chứ ???"
"Em hiểu chứ ! Nhưng em..."
"Đừng ích kỷ thế ! Nên nhớ là hoàn cảnh của hai chúng ta không giống nhau. Anh đi rồi em có thể tìm một người khác tốt hơn anh cơ mà..."
"Đủ rồi ! Em không muốn nghe gì hết. Em yêu anh ! Em yêu anh ! Anh không hiểu sao ??? Em chỉ cần anh thôi...!"
Kết thúc cuộc tranh cãi, Mắt Đen bất ngờ chộp lấy bạn tôi và ném mạnh vào tường. Cậu ta gào lên :
"Em hãy buông tha cho anh đi. Anh xin em đấy !"
Cả tôi lẫn Tóc Nâu đều chết sững. Tôi thì vì cái chết quá thương tâm của bạn mình, Tóc Nâu thì vì tuyệt vọng và đau đớn. Mắt Đen lao ra ngoài, đóng sầm cửa lại. Tóc Nâu ngã quỵ xuống, khóc như mưa. Nếu có thể thì tôi cũng muốn khóc lắm ! Người anh em giống y hệt tôi, cùng sống chung với tôi từ khi sinh ra đến giờ nay chỉ còn là những mảnh vỡ màu xanh, nằm tung toé dưới chân tường. Căn nhà hôm đó tràn ngập nỗi đau.
Tóc Nâu đã nằm trên sàn rất lâu. Mắt cậu mở trừng trừng, nhìn ra phía cửa. Cậu biết chẳng bao giờ Mắt Đen quay lại nữa. Cậu cũng không còn khóc, hai mắt sưng húp. Cứ như vậy cho tới gần hết một đêm...
Rồi cậu trở dậy. Cậu lau dọn nhà cửa. Cậu nấu đồ ăn và để trong tủ lạnh. Cậu thu dọn những mảnh vỡ của bạn tôi, gói lại cẩn thận rồi để lên bàn, vẫn chỗ thường đặt. Cậu đem tôi đi rửa, chưa bao giờ cậu rửa tôi kỹ lưỡng như thế, rồi lau khô. Sau đó, cậu đặt tôi lên bàn. Cuối cùng, cậu thu dọn hết tất cả quần áo của mình, bỏ vào trong một cái valy nhỏ. Gần sáng, khi đã làm xong tất cả mọi việc, cậu mặc áo khoác, xách valy và bước ra khỏi nhà. Trước khi đi, cậu còn nhìn khắp nhà một lượt, ánh mắt vô cùng buồn bã và tiếc nuối.
Tôi đã nằm một mình ở đó rất lâu. Không gian xung quanh tĩnh lặng như tờ. Một thời gian sau, tôi và tất cả đồ đạc trong nhà đều đã bị phủ một lớp bụi dày. Tôi buồn quá ! Thế này thì có khác gì ở trong một cái nhà kho đâu cơ chứ. Tóc Nâu ơi ! Mắt Đen ơi ! Sao hai người không quay trở lại ???
Nhưng rồi lời cầu nguyện của tôi cũng linh ứng một phần. Một buổi tối, cánh cửa nhà bật mở. Tôi choàng dậy như sau một giấc ngủ dài. Là Mắt Đen ! Tôi định reo lên nhưng nghĩ lại chuyện cậu ta đã làm với bạn tôi lúc trước, tôi sợ hãi đến co rúm người lại.
Mắt Đen đi một vòng quanh nhà. Cậu vào phòng ngủ, rồi trở ra với vẻ mặt thất vọng. Đồ đạc trong nhà vẫn y nguyên như lúc cậu đi. Cậu mở tủ lạnh. Một mùi thức ăn ôi thiu lâu ngày xộc ra, nhưng cậu không đóng lại mà cứ nhìn chằm chằm vào đống đồ ăn đó. Mảnh giấy gắn trên tủ lạnh vẫn ghi : "Nếu anh trở về mà thấy đói thì có sẵn đồ ăn trong tủ lạnh đó." Đọc xong, cậu vội vàng đóng sập cửa tủ lại.
Cuối cùng, cậu ra bàn ngồi vào chỗ quen thuộc của mình. Cậu nhìn thấy tôi. Một giây...hai giây...Rồi cậu oà lên khóc. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cậu khóc. Cậu khóc nức nở như một người vừa mất đi điều gì quý giá lắm. Tại sao cậu lại khóc nhỉ ???
Bạn có biết không ?
Tôi bèn soi mình vào gương.
Hoá ra, phần thân tôi quay về phía cậu ấy vẫn để hình mặt cười....

Giuse bị bán qua Ai Cập

Gia-cóp có 12 người con trai. Giu-se được 17 tuổi thì đi chăn chiên với các anh mình. Ông Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, ông may cho cậu một áo choàng dài tay. Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn mình, thì ghét cậu và không ăn nói tử tế với cậu.


Một lần kia Giu-se làm mơ và kể lại giấc mơ cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. Cậu kể cho họ nghe về giấc mơ: "Em thấy chúng ta đang bó những bó lúa ngoài đồng, bó lúa của em vươn dậy, đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh bó lúa của em, và sụp xuống lạy bó lúa của em." Các anh bảo cậu: "Mày muốn làm vua cai trị chúng tao sao đây?" Và họ càng ghét cậu thêm.
Một lần khác cậu lại làm mơ và kể cho các anh. Cậu nói: "Em lại làm mơ. Em thấy mặt trời, mặt trăng và 11 ngôi sao đang sụp xuống lạy em." Cậu kể lại cho cha và các anh nghe, nhưng cha mắng cậu và nói: "Giấc mơ mày đã thấy là gì? Không lẽ Tao, mẹ mày và các anh mày lại phải sụp xuống đất lạy mày sao?" Các anh càng ghen với cậu, còn cha cậu thì nhớ điều ấy.


Một hôm, Ông Ít-ra-en gọi bảo Giu-se: "Các anh con đang chăn chiên dê ở đồng Si-khem. Con hãy đi xem các anh con và chiên dê có được bình yên không, rồi hãy trở về báo cho cha biết."
Giu-se ra đi và tìm thấy các anh mình đang giữ chiên ở Đô-than. Thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần thì họ lập mưu giết chết cậu. Họ bảo nhau: "Thằng vua làm mơ đang đến kia. Chúng ta hãy giết và ném nó xuống một cái giếng. Chúng ta sẽ nói với cha là thú dữ đã ăn thịt nó. Để xem giấc mơ của nó đi tới đâu!"

Nghe thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu Giuse; cậu nói: "Đừng đụng tới mạng sống nó." Rưu-vên bảo họ: "Đừng đổ máu em chúng ta. Cứ ném nó xuống cái giếng trong sa mạc, nhưng đừng giết hại nó." Cậu có ý cứu em khỏi tay họ và đưa về cho cha. Khi Giu-se đến chỗ các anh, thì họ lột chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước. Rồi họ ngồi xuống ăn cơm.

Giu-đa nói với các anh em: "Ta giết Giuse và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, vì nó là em ta." Các anh em cùng đồng ý.

Những người buôn Ma-đi-an đi qua đó. Họ kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên 20 đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập. Khi Rưu-vên trở lại giếng thì thấy Giu-se không còn ở dưới giếng nữa. Cậu liền xé áo mình ra hối hận. Cậu đến nói với các em: "Thằng bé không còn nữa! Còn tôi, tôi biết đi đâu bây giờ!"

H
ọ lấy áo choàng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu. Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không." Ông nhận ra cái áo và kêu lên: "Áo chùng của Giuse đây! Thú rừng đã xé xác ăn thịt nó rồi! " Ông Gia-cóp xé áo mình ra, khóc thương cậu. Tất cả các con trai con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi.
Người Ma-đi-an đem bán Giuse cho ông Pô-ti-pha là viên chỉ huy của vua Ai-cập là Pha-ra-ô.

Bánh Mana Từ Trời

Toàn thể con cái Ít-ra-en tới sa mạc Sin kể từ khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Trong sa mạc, con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay Thiên Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng các ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói ở đây."


Thiên Chúa nghe biết liền phán với ông Mô-sê: "Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không. Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần cho chúng lượm mỗi ngày để ăn vào ngày thứ Bảy."

Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nói với con cái Ít-ra-en: "Thiên Chúa sẽ cho anh em chiều có thịt để ăn, và sáng có bánh để được thoả thuê, vì Thiên Chúa đã nghe thấy những lời anh em kêu trách Người."
Chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt đất, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì đây? " Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ: "Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em làm của ăn".

Ông Mô-sê nói với họ: "Đừng có ai để dành cho đến sáng." Một số người đã không nghe lời ông Mô-sê: họ để dành cho đến sáng, và bánh đó đã có giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ vì họ không nghe lời Thiên Chúa. Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt trời toả sức nóng, thì nó tan ra.

Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là Man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.

Ông Mô-sê nói: "Đây là điều Thiên Chúa đã truyền: Hãy đong đầy một đấu để giữ lại cho con cháu các ngươi; như thế, chúng sẽ thấy bánh Ta đã cho các ngươi ăn trong sa mạc, lúc Ta đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập." Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Hãy lấy một cái bình và đổ vào đó một đấu đầy man-na, rồi đặt trước nhan Thiên Chúa để giữ lại cho con cháu anh em." Theo như Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, ông A-ha-ron đã đặt cái bình ấy đằng trước Chứng Ước, để giữ lại.

Con cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an.